Nhất Mộng Như Sơ - Chương 6:

Cập nhật lúc: 2024-11-26 14:27:12

Ta nay đã là người tự do, nói thẳng ra không còn liên quan đến nhà họ Ôn.

 

Ở chung với Bảo Châu thì không sao, nhưng khi về nhà, ta lại thấy không thoải mái.

 

Tuy vậy, lão gia và phu nhân đối đãi với ta thật như nữ nhi ruột, không khác gì với Bảo Châu.

 

Hai vị lang quân cũng rất lễ độ, tôn trọng ta, lâu dần ta cũng quen, gọi họ là "A thúc" và "A thẩm", cùng Bảo Châu gọi hai vị lang quân là nhị ca và tam ca.

 

Hắn đã đi nửa năm, không có lấy một lá thư.

 

A thúc dường như tìm được sở thích mới, mỗi ngày đều đến tư thục dạy nửa buổi, nửa buổi còn lại ở nhà dạy hai người nhi tử.

 

A thúc vốn xuất thân là cử nhân, chuyện này rất đỗi tự nhiên.

 

Bảo Châu không cần đến trường nữa, ngày ngày theo mẹ học đọc sách, làm nữ công gia chánh, còn phụ giúp việc nhà, đi chợ nấu cơm.

 

Nàng nay cái gì cũng thành thạo, chỉ cần ta chuẩn bị cho nàng một món hồi môn dày dặn, muốn tìm một lang quân thế nào chẳng được?

 

Ta chỉ mong một điều, nàng có thể gả cho người yêu thương, che chở nàng, để nàng sống một đời vui vẻ, không lo âu.

 

Một hôm ta về nhà muộn, vừa bước vào đã cảm nhận được bầu không khí trầm mặc, căng thẳng.

 

Ta không rõ có chuyện gì xảy ra.

 

Người nhà cũng không nói rõ được, chỉ bảo rằng A thúc sáng nay đi tư thục, về nhà liền nhốt mình trong phòng, cả ngày không ăn uống gì.

 

Ta mơ hồ đoán ra được, hẳn là ông đã biết chuyện của Đại lang quân.

 

Chuyện này là điều sớm muộn, chỉ là xảy ra sớm một ngày hay muộn một ngày mà thôi.

 

Ta nấu bát hoành thánh mang từ quán về, bảo mọi người ăn trước, rồi bưng một bát vào phòng tìm ông.

 

Phòng phía đông để trống làm thư phòng, ông đang ở trong đó.

 

Ta gọi vài tiếng, ông mới đáp.

 

Ta đẩy cửa vào, thấy trong phòng không bật đèn, chỉ có ánh trăng ngoài cửa sổ chiếu vào, hắt lên một bóng dáng cô đơn.

 

Ta đặt khay xuống bàn, tìm que diêm để thắp đèn.

 

Chỉ qua một ngày không gặp, A thúc dường như già đi nhiều.

 

Mái tóc vốn đã bạc, giờ lại càng bạc hơn.

 

Ông khom lưng, không thể thẳng người như trước.

 

"A thúc nghe được chuyện của Đại lang quân rồi phải không?"

 

Ta đặt bát hoành thánh trước mặt ông, đưa đũa đến tay ông, nhưng ông run đến mức không cầm nổi.

 

"A thúc là giận vì huynh ấy làm mất danh tiếng hay vì đau lòng cho huynh ấy?"

 

"Con ta khổ quá. Là ta hại nó."

 

A thúc rơi nước mắt, khóc không thành tiếng.

 

Ông đau lòng cho đứa con của mình, hơn cả lo nghĩ về danh tiếng.

 

"A thúc, nếu ngài đã đau lòng cho huynh ấy, thì đừng nói những lời như hại huynh ấy nữa. Trong lòng huynh ấy đã đủ khổ sở rồi. Huynh ấy giấu mọi chuyện, không nói với các ngài, chính là sợ một ngày nào đó các ngài biết được, rồi trách móc, oán giận, hoặc tự trách, đau lòng. Huynh ấy đã chịu đựng cay đắng đến vậy, chúng ta càng phải sống như bình thường, ngày hôm qua thế nào thì ngày mai vẫn vậy. Một nhà thì không nên phân rõ ràng những món nợ ấy. Càng đối xử bình thường, huynh ấy mới càng cảm thấy thoải mái, không ngại ngần."

 

Ta tìm một chiếc khăn tay, giúp ông lau nước mắt.

 

"Nhưng nó mang theo tai tiếng như vậy, sau này làm sao cưới vợ, sinh con?"

 

"A thúc, huynh ấy là một lang quân tốt, rất tốt. Chắc chắn sẽ có một người vợ xứng đáng chờ đợi huynh ấy. Ngài không cần lo lắng, chỉ cần ăn ngon, giữ sức khỏe, rồi chờ ngày bồng cháu nội mập mạp thôi."

 

Hắn tốt đến mức như ánh trăng sáng trên trời, trong mắt như có những tia sáng lấp lánh.

 

Thế gian này ắt hẳn sẽ có một cô nương hiểu được giá trị của hắn.

 

Hắn đã chịu đủ khổ cực, nếu trời cao còn thương xót, chắc chắn sẽ ban cho hắn một người vợ yêu thương, che chở và chân thành với hắn suốt đời.

 

Đến tháng Bảy, ta giao cửa hàng lại cho Hà nương tử và A thẩm trông nom, rồi theo xe chở hàng của Hương Tú trở về quê nhà.

 

Năm ta rời nhà là 12 tuổi, giờ đã bảy năm trôi qua.

 

Không biết là ta thay đổi, hay quê nhà đã khác đi?

 

Mỗi năm ta đều gửi tiền về, nhà đã mua được 40 mẫu ruộng nước, xây hẳn một căn nhà ngói lớn.

 

Muội muội đã lấy chồng, đệ đệ cũng đã cưới vợ.

 

Ông bà nội đã qua đời từ lâu, ba người thúc thúc lười biếng ngày xưa đều đã có vợ, cuộc sống cũng tạm ổn.

 

Nhưng đối với ta, ngôi nhà này đã trở nên quá xa lạ.

 

Và gia đình ta, cũng đã xa cách.

 

Người vợ của đệ đệ là một người khéo léo, nhưng khéo đến mức khiến người khác cảm thấy khó chịu.

 

Nàng không ngừng dò hỏi ta mỗi tháng kiếm được bao nhiêu, chiếc váy ta mặc trị giá bao nhiêu bạc.

 

Ta không muốn nói nhiều với nàng, chỉ cố nhẫn nhịn.

 

Trong miệng nàng, ta trở thành một "di nương".

 

Cha ta làm "lão gia" được hai năm, nhưng chưa từng hỏi một câu xem nữ nhi của mình sống thế nào.

 

Ông chỉ dặn dò:

 

"Làm hài lòng bà chủ, phục vụ tốt lão gia. Nếu kiếm được bạc thì nhớ gửi nhiều một chút về nhà. Ta còn phải để dành tiền cưới vợ cho cháu trai."

 

Muội muội gặp ta, chỉ biết khóc lóc kể khổ, bảo rằng cha ta sẵn sàng bỏ tiền để cưới vợ cho ba người thúc thúc, nhưng lại tiếc rẻ không cho nàng nổi mười lượng bạc.

 

Như thể mười lượng bạc là hòn đá ven đường, dễ dàng tìm thấy.

 

Bạc là thứ tốt, nhưng cũng không phải lúc nào cũng tốt.

 

Nó quá sáng, dễ dàng chiếu rọi những góc khuất trong lòng người, khiến người ta thấy rõ những toan tính, uẩn khúc.

 

Mẹ ta đã qua đời từ mấy năm trước, nhưng không ai nói với ta một lời.

 

Trong tủ còn đôi giày bà làm cho ta, có một đôi màu đỏ, bà nói rằng làm để chờ ngày ta xuất giá, còn định may cho ta một bộ hồng y đỏ thẫm.

 

Người yêu thương ta nhất lại ra đi sớm như vậy.

 

Không ai nói rõ bà ra đi thế nào, là không muốn nói, hay không dám nói, giờ đây cũng không còn quan trọng nữa.

 

Người đã mất, có nói rõ thì cũng còn ý nghĩa gì đâu?

 

Ta chỉ ở lại ba ngày, để lại mười lượng bạc.

 

Nhìn ánh mắt đầy thất vọng của họ, ta quay lưng đi, không ngoảnh đầu lại.

 

Ta đã không còn nhà, cũng không còn điều gì níu kéo.

 

Chỉ khi quỳ trước mộ mẹ, ta mới dám khóc.

 

Ta biết, chỉ có mẹ mới hiểu những khó khăn, gian khổ mà ta đã trải qua.

 

8

 


Ta trở về Biện Kinh vào đầu tháng Tám.

 

Hoa cúc ở Biện Kinh nở rộ, rực rỡ và lộng lẫy.

 

Mở cửa ra đã có cơm canh nóng hổi, có người đợi ta trở về, ngay cả chăn gối cũng mang mùi thơm của ánh mặt trời.

 

Nhìn xem, ta đến thế gian này, quả thật không phải là uổng phí.

 

"Mẹ ơi, mẹ thấy không? Có người thương con, con sống rất tốt. Nếu mẹ thực sự có thể biết được, thì hãy an lòng mà đi. Kiếp sau hãy làm một cánh chim bay lượn hay một chú cá bơi lội, được không? Chỉ cần mẹ muốn, muốn bay xa đến đâu, bơi rộng bao nhiêu cũng được. Nếu nhất định phải làm người, và nếu con có thể gả cho một người tốt, thì mẹ hãy làm con của con nhé! Con sẽ đem tất cả những gì mẹ muốn dâng đến trước mặt mẹ. Yêu mẹ, thương mẹ, để mẹ trở thành đứa trẻ hạnh phúc nhất thế gian."

 

Mùa thu qua, mùa đông tới, Hà Nam có một trận tuyết lớn.

 

Nghe nói đã làm chết không biết bao nhiêu gia súc và người dân.

 

Thánh thượng không lo nghĩ cách cứu nạn, lại lập đàn cầu đạo, thật khiến người ta thất vọng.

 

Tuy nhiên, mọi việc trên đời đều có duyên cớ của nó.

 

Vào đêm giao thừa, trưởng công chúa phản loạn.

 

Lý do là thánh thượng là một hôn quân, không xứng đáng làm hoàng đế, nàng muốn học theo Võ Hậu, trở thành nữ đế đầu tiên.

 

Nàng chém đầu người đệ đệ ruột của mình, nhưng ngày hôm sau, lại chết trong chính tẩm điện của mình.

 

Triều đình, dưới sự lãnh đạo của Tống Các lão, đồng loạt ủng hộ thái tử lên ngôi.

 

Chỉ trong vài ngày, Đại Khánh đã có hoàng đế mới.

 

Người dân không quan tâm ai làm hoàng đế, chỉ cần người đó cho họ một cuộc sống tốt đẹp.

 

Dù trên ngai vàng có là một đứa trẻ ba tuổi, họ cũng chấp nhận.

 

Thái tử quả thực khác xa người cha bạc mệnh của mình.

 

Chỉ trong vài ngày, ngài đã sắp xếp chu toàn việc cứu tế nạn dân.

 

Cả triều đình trên dưới đều không tiếc lời khen ngợi ngài là minh quân.

 

Đám lưu dân ngoài thành Biện Kinh chỉ trong một ngày đã biến mất.

 

Nghe nói, những người muốn về quê đã được đưa về, không muốn về thì được chia đất, giúp dựng nhà.

 

Ta không hiểu nhiều về chính sự, nhưng nhìn cách hành động ấy, vị tân hoàng này chắc chắn không phải người tầm thường.

 

Đến tháng Tư, gió xuân mát dịu, ta đang ở cửa sau nhận cá tôm được giao tới thì Bảo Châu vội vã chạy đến.

 

Ta hỏi nàng có chuyện gì, nàng chỉ rơi nước mắt, lắp bắp nói không rõ.

 

Ta tưởng nhà có chuyện, liền kéo nàng chạy về.

 

Đến trước cổng, chỉ thấy một đám đông vây quanh đứng xem, trước cửa có một cỗ xe ngựa, cây lê già trước sân bị buộc đầy những con ngựa cao to.

 

Phải chen lấn mãi mới vào được, trong sân đã chật ních người.

 

Nhà nhỏ, không gian không đủ chứa mười mấy người, nên họ phải dọn ghế ra sân mà nói chuyện.

 

Người ngồi chính giữa là một ông lão mặt trắng không râu, tóc hoa râm, mặc một bộ đồ vải xám đơn giản.

 

Ông trông già hơn A thúc của ta rất nhiều.

 

Ta đoán ông hẳn là một nội thị trong cung, bởi nếu cải trang như vậy, chắc chắn không muốn gây chú ý.

 

Ta kéo Bảo Châu đến hành lễ.

 

"A công, ngài khỏe chứ? Nhà chật chội, làm phiền ngài rồi."

 

Ông trông rất hiền lành, không giống như những gì sách vở miêu tả về nội thị, rằng họ đều cay nghiệt, giọng nói the thé.

Bình luận

Chính sách và quy định chung - Chính sách bảo mật - Sitemap
Copyright © 2024. All right reserved.